14:26, 17/04/2024

Chính sách xã hội trong bảo đảm, bảo vệ quyền con người, thúc đẩy tiến bộ, công bằng xã hội và hội nhập quốc tế ở Việt Nam

Chính sách xã hội và quyền con người có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thực hiện tốt chính sách xã hội chính là quá trình hiện thực hóa các quyền con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và các chuẩn mực quốc tế về quyền con người. Ngược lại, quyền con người được bảo đảm, bảo vệ thông qua thực hiện chính sách xã hội sẽ tạo động lực to lớn thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội, hiện thực hóa mục tiêu, khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, thực hiện thành công hội nhập quốc tế.

Hạnh phúc đám cưới tập thể của các cặp đôi công nhân_Ảnh: Tư liệu 
Hạnh phúc đám cưới tập thể của các cặp đôi công nhân_Ảnh: Tư liệu 

Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chính sách xã hội trong bảo đảm, bảo vệ quyền con người, thúc đẩy tiến bộ, công bằng xã hội

Hiện nay có nhiều cách hiểu và tiếp cận khác nhau về chính sách xã hội (CSXH). Có quan điểm coi CSXH là một tập hợp con của chính sách công; hay CSXH là một môn học liên ngành và ứng dụng liên quan đến việc phân tích các phản ứng của xã hội đối với nhu cầu xã hội; hay CSXH là chính sách công và thực hành trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, dịch vụ con người, tư pháp hình sự, bất bình đẳng, giáo dục và lao động... Dù tiếp cận dưới góc độ nào, CSXH bao giờ cũng là hệ thống nguyên tắc, hướng dẫn được thể hiện dưới dạng văn bản (tùy thuộc vào thể chế chính trị, pháp luật của mỗi quốc gia) mà có tên gọi khác nhau, như nghị quyết, quyết định, chỉ thị, thông tư, sắc lệnh, nghị định, luật, hay kế hoạch, chương trình hành động thể hiện đường lối chính trị của đảng cầm quyền và chính phủ hướng tới giải quyết một vấn đề gì đó thuộc về quốc kế dân sinh, giải quyết những vấn đề phát sinh trong đời sống xã hội. Từ cách hiểu này, CSXH luôn là bộ phận cấu thành chính sách chung của Đảng, Nhà nước trong việc giải quyết và quản lý các vấn đề xã hội bên cạnh các vấn đề chính trị, kinh tế. Vì là chính sách chung, chính sách công, nên CSXH có phạm vi rất rộng, liên quan tới các đối tượng, giai tầng, các lĩnh vực xã hội, từ y tế, giáo dục, bảo hiểm, lao động, việc làm, nhập cư, phúc lợi xã hội...

Ở Việt Nam hiện nay, CSXH đã và đang được nghiên cứu, nhìn nhận ở hai cấp độ: Ở phạm vi hẹp, CSXH thường được hiểu là áp dụng cho những nhóm lao động xã hội gọi là “đối tượng chính sách”, bao gồm chính sách với người có công; chính sách việc làm; chính sách thu nhập; chính sách giảm nghèo trên cả nước; chính sách BHXH; chính sách trợ giúp người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; chính sách bảo đảm các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân... và các đối tượng thuộc diện CSXH, thường tập trung vào hộ gia đình nghèo, hộ đặc biệt khó khăn, hộ gia đình dân tộc thiểu số, gia đình có công, thương binh, bệnh binh, gia đình có người bị ảnh hưởng bởi chất độc màu da cam... Ở phạm vi rộng, CSXH bao hàm cả chính sách đối với các tầng lớp nhân dân, như chính sách đối với công nhân, nông dân, thanh niên, trí thức,...

Chính sách xã hội có đặc điểm chung:

Thứ nhất, CSXH lấy con người, quyền và lợi ích của các nhóm người trong cộng đồng làm đối tượng để điều hòa lợi ích xã hội, phát triển con người toàn diện.

Thứ hai, CSXH là thước đo đánh giá trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của một quốc gia, phản ánh mức sống, thu nhập và thể hiện bản chất chế độ, xã hội vì con người, nên CSXH mang tính nhân văn và nhân đạo sâu sắc.

Thứ ba, CSXH là công cụ để điều hòa lợi ích, thu nhập, đáp ứng các nhu cầu cơ bản của các nhóm người, nhất là nhóm đối tượng xã hội vì mục tiêu thực hiện quyền con người.

Thứ tư, CSXH có tính trách nhiệm xã hội cao, quan tâm và tạo điều kiện, cơ hội thuận lợi để mọi người phát triển, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội.

Chính sách xã hội có vai trò quan trọng trong bảo đảm, bảo vệ quyền con người, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội.

Thứ nhất, CSXH là công cụ, biện pháp để Nhà nước thực hiện mục tiêu phát triển con người toàn diện. Chính sách xã hội phát huy tiềm năng, nguồn lực con người với tư cách con người cá nhân và con người trong cộng đồng, nhóm; khơi dậy tính tích cực, kích thích kinh tế, góp phần điều tiết các quan hệ xã hội nhằm bảo đảm và thiết lập xã hội công bằng, văn minh, để con người với tư cách là con người cá nhân và con người tập thể đều được chăm lo phát triển toàn diện, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội.

Thứ hai, CSXH là công cụ để điều tiết quan hệ xã hội, giảm thiểu phân hóa, mâu thuẫn và khác biệt xã hội, chống bất công, bất bình đẳng xã hội. Trong xã hội, mỗi giai tầng, mỗi nhóm người có sự khác nhau về quan điểm, trình độ, địa vị, điều kiện, hoàn cảnh..., vì thế chính sách cần dựa trên đặc điểm riêng của các nhóm xã hội, nhất là trong những thời điểm có thiên tai, dịch bệnh, như năm 2020 - 2021, cả thế giới phải đối mặt với đại dịch COVID-19..., do đó cần điều chỉnh bằng công cụ CSXH để giải quyết các vấn đề xã hội, bảo đảm cho xã hội phát triển ổn định.

Thứ ba, CSXH tạo tính tích cực, năng động xã hội vì mục tiêu phát triển bao trùm, phát triển bền vững “không ai bị bỏ lại phía sau”. Muốn xã hội phát triển bền vững, quan trọng là phải bảo đảm công bằng xã hội, là giải quyết lợi ích giữa các đối tượng có thể có chênh lệch ở mức chấp nhận được. Nếu không có CSXH phù hợp, không giải quyết đúng đắn vấn đề mấu chốt này thì có thể sẽ làm triệt tiêu các động lực phát triển xã hội, dẫn tới sự trì trệ và khủng hoảng xã hội, do phân hóa giàu, nghèo, bất bình đẳng xã hội gia tăng.

Thực tiễn thực hiện chính sách xã hội trong bảo đảm, bảo vệ quyền con người, thúc đẩy tiến bộ, công bằng xã hội và hội nhập quốc tế ở Việt Nam

Thành tựu thực hiện chính sách xã hội trong bảo đảm, bảo vệ quyền con người.

Thứ nhất, thể chế CSXH trong bảo đảm, bảo vệ quyền con người ngày càng được hoàn thiện với việc xây dựng hệ thống pháp luật và chính sách về an sinh xã hội (ASXH) mang tính kịp thời, đồng bộ và khả thi cao. Trong hoạt động lập pháp, việc ban hành Hiến pháp năm 2013 và các bộ luật, luật, như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH), Luật Bảo hiểm y tế, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật, Luật Người cao tuổi, Luật Giáo dục, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Việc làm... có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc giúp cụ thể hóa các quyền ASXH, nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững. Trong hoạt động lập quỹ, trọng tâm được đặt vào việc bảo đảm ASXH cho người dân, trợ giúp kịp thời và hiệu quả các nhóm đối tượng có hoàn cảnh khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi, qua đó thực thi nhất quán chủ trương “không để ai bị bỏ lại phía sau” của Đảng và Nhà nước. Các chính sách cụ thể, như bảo trợ xã hội, giảm nghèo đa chiều, phát triển bền vững, bao trùm, hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt..., đã từng bước góp phần nâng cao phúc lợi cho các đối tượng CSXH có liên quan, bảo đảm và đáp ứng tốt các nhu cầu tối thiểu của họ, giúp phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro, mang lại cơ hội bình đẳng thực chất cho các nhóm yếu thế để giúp họ vươn lên, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước.

Đặc biệt, trong đại dịch COVID-19 vừa qua, Chính phủ đã ban hành những chính sách chưa có tiền lệ để thực hiện CSXH(1). Đây là những quyết sách quan trọng, kịp thời hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn trong đại dịch bằng những gói phúc lợi hàng chục nghìn tỷ đồng, bảo đảm các quyền con người cơ bản, đồng thời gia tăng năng lực hoạt động cho hệ thống ASXH để ứng phó hiệu quả với những thách thức mang tính toàn cầu cũng như thiết lập những bảo đảm cần thiết cho sự phát triển bền vững với tầm nhìn trung hạn và dài hạn.

Thứ hai, hệ thống ASXH đã được phát triển thành lưới ASXH, không ngừng mở rộng diện bao phủ các đối tượng và ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu của các đối tượng ASXH. Điều này phản ánh rõ nét qua những chuyển biến tích cực trên các phương diện: 1- Hệ thống BHXH được thiết kế, tổ chức và hoạt động đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, là “phao cứu sinh” cho người dân khi đối mặt với những rủi ro khó lường (như ốm đau, thiên tai, dịch bệnh, mất việc làm do tai nạn lao động...), giúp họ bảo đảm nguồn thu nhập, bảo đảm sinh kế và ổn định cuộc sống; 2- Hệ thống hỗ trợ giải quyết việc làm đã và đang góp phần tạo việc làm đa dạng, đáp ứng nhu cầu của phần lớn lực lượng lao động; góp phần đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; giúp kết nối người thất nghiệp với doanh nghiệp; giúp người lao động cải thiện thu nhập, bảo đảm quyền có việc làm của người dân, qua đó góp phần giảm nghèo hiệu quả; 3- Hệ thống trợ giúp xã hội giúp người dân khắc phục rủi ro, biến cố thông qua các khoản trợ cấp trực tiếp bằng tiền hoặc hiện vật với kinh phí trích từ ngân sách nhà nước; 4- Hệ thống chính sách ưu đãi người có công, các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, chịu nhiều thiệt thòi đã và đang mang lại những lợi ích đáng kể cho các nhóm đối tượng này, góp phần thực hiện công bằng xã hội hiệu quả trên phạm vi cả nước; 5- Hệ thống bảo đảm tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (như giáo dục, y tế, nhà ở, thông tin, nước sạch...,) ngày càng được cải thiện về chất lượng cũng như quy mô dịch vụ, đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của đại bộ phận người dân, đặc biệt là nhóm dân cư vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, địa bàn đặc biệt khó khăn.

Thứ ba, đời sống của đại bộ phận người dân ngày càng được cải thiện trên các khía cạnh kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Có thể thấy rõ điều này trong sự liên tục cải thiện các chỉ số quan trọng liên quan đến con người, như chỉ số phát triển con người (HDI), chỉ số bình đẳng giới (GEI), tuổi thọ bình quân đầu người, thu nhập bình quân đầu người... Đây là những thành tựu quan trọng, nhất là trong bối cảnh các chỉ số này của nhiều quốc gia trên thế giới có xu hướng chững lại, thậm chí bị đảo ngược do những khó khăn về kinh tế, bất ổn chính trị, do những thách thức của an ninh phi truyền thống... Việt Nam cũng là một trong những quốc gia hoàn thành sớm Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, đây là tiền đề giúp Việt Nam hướng đến thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc (SDGs). Theo xếp hạng của Liên hợp quốc năm 2020 về thực hiện SDGs, Việt Nam xếp thứ 51/193 quốc gia thành viên của Liên hợp quốc, đạt thành tích cao hơn so với nhiều nước trong khu vực.

Một số hạn chế trong thực hiện chính sách xã hội trong bảo đảm, bảo vệ quyền con người.

Bên cạnh những kết quả nói trên, thực hiện CSXH trong bảo đảm, bảo vệ quyền con người vẫn bộc lộ một số hạn chế nhất định.

Thứ nhất, một số chính sách ASXH được triển khai, nhưng chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Chính sách BHXH được triển khai mạnh mẽ, nhưng diện bao phủ còn hẹp, tỷ lệ người lao động tham gia BHXH, nhất là trong khu vực kinh tế phi chính thức vẫn còn thấp. Chính sách giảm nghèo đã giúp Việt Nam đạt được thành tích giảm nghèo đa chiều ấn tượng, song tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo lại có xu hướng tăng lên. Trong khi đó, mức hỗ trợ an sinh xã hội cho các đối tượng liên quan vẫn còn thấp, chưa bảo đảm mức sống tối thiểu của một bộ phận dân cư, kể cả tại các thành phố lớn cũng như các địa phương ở vùng sâu, vùng xa...

Bên cạnh đó, vấn đề an ninh con người, mặc dù đã được đề cập nhiều trong Văn kiện Đại hội XII và XIII của Đảng, nhưng đến nay, việc thể chế hóa và thực thi các giải pháp chưa đồng bộ, còn nhiều bất cập.

Thứ hai, chưa thực sự thu hút sự tham gia tích cực của chủ thể quyền vào quá trình xây dựng pháp luật, nhất là CSXH có liên quan đến quyền con người. Tính công khai, minh bạch trong hoạt động cung ứng dịch vụ công của một số cơ quan nhà nước; việc một bộ phận cán bộ lợi dụng chức quyền, “che giấu” thông tin chính sách vì động cơ cá nhân hoặc lợi ích nhóm đã ít nhiều cản trở quyền lợi chính đáng của người dân, khiến cho các đối tượng ASXH gặp không ít trở ngại trong việc tiếp cận các nguồn hỗ trợ của Nhà nước, từ đó làm giảm hiệu quả của chính sách ASXH và thậm chí, làm giảm niềm tin của người dân vào hoạt động của bộ máy nhà nước.

Thứ ba, đội ngũ cán bộ, công chức tham gia triển khai các chính sách ASXH còn yếu, thiếu kỹ năng chuyên môn và quản lý, tính chuyên nghiệp chưa cao, chưa ứng dụng hiệu quả công nghệ số vào hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, nhận thức chưa đúng mức về thực hiện quyền con người... Trong khi đó, một bộ phận đối tượng thụ hưởng ASXH lại có tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước. Hơn nữa, chất lượng của các dịch vụ ASXH cũng chưa cao, các loại hình dịch vụ chưa đa dạng, thiếu sáng tạo, đổi mới mà nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ sự hạn chế nguồn lực vật chất, kỹ thuật trong bối cảnh trình độ khoa học - kỹ thuật, công nghệ còn nhiều hạn chế. Điều này khiến cho việc thực thi chính sách ASXH gặp nhiều khó khăn, thách thức, làm giảm diện bao phủ của chính sách ASXH, giảm hiệu quả bảo đảm quyền con người nói chung, quyền ASXH nói riêng của người dân. 

Thứ tư, việc vận dụng tiếp cận quyền con người trong hoạch định CSXH chưa được như mong muốn. Trên thực tế, trong quá trình hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở cả Trung ương cũng như địa phương hầu như chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa bảo đảm các quyền của người dân.

Giải pháp hoàn thiện chính sách xã hội trong bảo đảm, bảo vệ quyền con người, thúc đẩy tiến bộ, công bằng xã hội và thực hiện hội nhập quốc tế ở Việt Nam thời gian tới

Một là, quán triệt và thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vai trò, tầm quan trọng của chính sách xã hội trong bảo đảm, bảo vệ quyền con người.

Chủ trương của Đảng ta khẳng định, không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi CSXH phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc người có công, người có hoàn cảnh khó khăn. Chính vì vậy, cần đẩy mạnh tuyên truyền để cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đầy đủ quan điểm của Đảng về CSXH, thực hiện CSXH bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Bảo đảm mối quan hệ không thể tách rời giữa con người với tư cách là cá nhân với con người trong cộng đồng, nhóm, tập thể: Mỗi cá nhân con người phải được bảo đảm tốt nhất các quyền và lợi ích của họ; phải coi mỗi cá nhân, công dân là chủ thể, là động lực trung tâm của CSXH. Thực hiện mục tiêu tổng quát được đặt ra trong Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24-11-2023, Hội nghị Trung ương 8 khóa VIII, “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”, theo đó, “Xây dựng hệ thống chính sách xã hội theo hướng bền vững, tiến bộ và công bằng, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, góp phần cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững; tạo cơ hội cho Nhân dân, nhất là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, người sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là về y tế, giáo dục, nhà ở, thông tin. Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả, hội nhập quốc tế gắn với việc làm bền vững; nâng cao chất lượng quản lý phát triển xã hội gắn với bảo đảm quyền con người, quyền công dân”(2).

Bác sĩ hướng dẫn chăm sóc trẻ sơ sinh tại nhà cho đồng bào dân tộc ở xã Hố Quáng Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang_Ảnh: TTXVN
Bác sĩ hướng dẫn chăm sóc trẻ sơ sinh tại nhà cho đồng bào dân tộc ở xã Hố Quáng Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang_Ảnh: TTXVN

Hai là, vận dụng tiếp cận quyền con người trong hoàn thiện thể chế, chính sách xã hội thúc đẩy tiến bộ, công bằng xã hội và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.

Vận dụng tiếp cận quyền con người với quan điểm phát triển bao trùm trong xây dựng và thực hiện CSXH chính là để bảo đảm tính thống nhất, liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau của các quyền con người, để người dân được thụ hưởng các quyền của mình trong quá trình phát triển. Đồng thời khẳng định, người dân là chủ thể của quyền con người, được quyền hưởng thành quả của quá trình phát triển do chính họ tạo ra. Từ cách tiếp cận này, Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu(3). Thực hiện quan điểm này, quá trình hoạch định CSXH phải hướng trọng tâm, lấy quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể hưởng quyền - đó là người dân, trong đó cần chú trọng chủ thể hưởng quyền ở các địa bàn chiến lược, trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người làm cơ sở.

Trong thời gian tới, cần tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hệ thống CSXH theo hướng hiệu quả, bao trùm, toàn diện, bền vững. Cụ thể, cần nghiên cứu, sửa đổi Luật Việc làm, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Bảo hiểm xã hội, Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng phù hợp với định hướng phát triển đất nước trong bối cảnh mới. Đồng thời, Chính phủ cần tiếp tục ban hành và thực hiện tốt các chương trình, kế hoạch hành động quốc gia gắn với từng nhóm đối tượng xã hội cụ thể.

Ba là, gắn kết bảo đảm các quyền dân sinh, dân chủ của người dân trong công cuộc đổi mới, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.                                     

Thứ nhất, tiếp tục thực hiện cách tiếp cận quyền con người. Từng chủ trương, chính sách, pháp luật cần: 1- Xuất phát và hướng đến đúng thành phần thụ hưởng; 2- Phân rõ chủ thể được bảo đảm quyền lợi và chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm thực hiện quyền lợi; 3- Lôi cuốn và huy động được sự tham gia chủ động, tích cực, đông đảo của người dân vào thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật đó; 4- Bảo đảm sự công khai, minh bạch trong triển khai, thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật.

Thứ hai, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; lấy phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất khi thiết kế nền hành chính nhà nước. Cán bộ, công chức, viên chức phải thấm nhuần tinh thần nền hành chính phục vụ nhân dân, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân làm trung tâm, xóa bỏ quan hệ “lợi ích nhóm” và tính bao cấp,  tư tưởng ban phát, ban ơn.

Thứ ba, tiếp tục thể chế hóa việc mở rộng cơ chế bảo đảm dân chủ. Tuyên truyền, quán triệt các cấp, các ngành và mọi người dân về tầm quan trọng của Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở; nghiên cứu xây dựng dự luật minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ.

Thứ tư, bảo đảm quyền ASXH gắn với an ninh con người, an ninh quốc gia. Kinh nghiệm từ xử lý khủng hoảng trong đại dịch COVID-19 vừa qua cho thấy, phải tăng cường triển khai, thực thi trên thực tế các giải pháp quan trọng về bảo đảm, bảo vệ các quyền con người, trước tiên là các quyền về sức khỏe, việc làm, thu nhập, BHXH, giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững...

Thứ năm, bảo đảm quyền con người gắn với phát triển bao trùm. Về nhận thức: phát triển bao trùm “để không ai bị bỏ lại ở phía sau” cần được quán triệt trong tất cả hoạt động từ khâu sản xuất, dịch vụ, phân phối, tiêu dùng; trong hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của các thành phần, khu vực kinh tế khác nhau; trong hoạt động của Nhà nước; gắn kết chặt chẽ giữa bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân với phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và bảo vệ môi trường; giữa các khía cạnh liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau của các quyền con người; bảo đảm tốt các quyền về dân sự, chính trị là cơ sở thực hiện các quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa, và ngược lại... Về triển khai thực hiện: kịp thời phát hiện và giải quyết thỏa đáng những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình phát triển nhanh, bền vững gắn với phát triển theo chuỗi, phát triển bao trùm, với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư... Thời gian tới, chú trọng tìm kiếm cách thức bảo đảm, bảo vệ quyền con người, nhất là quyền của các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trước tác động của biến đổi khí hậu, tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư..., như vấn đề quyền con người và trí tuệ nhân tạo; quyền con người và chuyển đổi số, quyền con người và quyền làm việc...

Thứ sáu, ứng dụng công nghệ thông tin trong triển khai thực hiện CSXH. Cần triển khai thực hiện hiệu quả Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về an sinh xã hội, ứng dụng công nghệ thông tin vào giải quyết chính sách an sinh xã hội đến năm 2020 và định hướng phát triển đến năm 2030; đơn giản hóa thủ tục hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đổi mới về tổ chức và đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến trong lĩnh vực ASXH, góp phần phát triển Chính phủ điện tử; đẩy nhanh hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu hộ gia đình, mã số cá nhân và bộ chỉ số ASXH để nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát, đánh giá việc thực hiện chính sách ASXH. Cần quan tâm đến các đối tượng đang ở khoảng giữa của BHXH và trợ cấp xã hội (những người có mức sống dưới trung bình, không có BHXH, song chưa được xếp vào diện nghèo nên không được nhận trợ cấp xã hội); người lao động khu vực phi chính thức, đối tượng dễ bị tổn thương...

Thứ bảy, thực hiện nhất quán CSXH gắn với chính sách tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Quan điểm nhất quán, xuyên suốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam là vì con người, lấy con người là trung tâm; tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, tiếp tục triển khai và thực hiện đồng bộ, hiệu quả các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.

Cần xây dựng kế hoạch, chương trình hành động quốc gia về quyền con người; đánh giá tác động đối với đối tượng bị tác động trực tiếp của dự luật trước khi thông qua; đưa nội dung cách tiếp cận quyền con người vào quản lý phát triển xã hội; việc hoạch định và thực thi các chính sách, chương trình, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phải sử dụng hiệu quả cách tiếp cận quyền con người; bảo đảm thực hiện tốt quyền con người, quyền công dân đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận và các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia./.

PGS, TS TƯỜNG DUY KIÊN
Viện trưởng Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
-------------

(1) Nghị quyết số 68/NQ-CP, ngày 1-7-2021, của Chính phủ, “Về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19”; Nghị quyết số 116/NQ-CP, ngày 24-9-2021, của Chính phủ, “Về chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp”; Nghị quyết số 128/NQ-CP, ngày 11-10-2021, của Chính phủ, ban hành quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”
(2) Xem: Thư viện Pháp luật, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Nghi-quyet-42-NQ-TW-2023-doi-moi-nang-cao-chat-luong-chinh-sach-xa-hoi-xay-dung-To-quoc-589023.aspx?anchor=muc_2,
(3) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 27 - 28

Theo tapchicongsan.org.vn