09:09, 04/09/2013

Tăng huyết áp thai kỳ

Huyết áp là áp lực dòng máu trong hệ tuần hoàn, biểu hiện tình trạng lưu thông của máu trong lòng mạch, đưa đến kết quả là máu có đến được các cơ quan trong cơ thể hay không. Đây là một dấu hiệu sống rất quan trọng cùng với nhịp mạch đập, tần số thở - những chỉ số không thể thiếu để đánh giá sức khỏe của mỗi người.

Huyết áp là gì?


Huyết áp là áp lực dòng máu trong hệ tuần hoàn, biểu hiện tình trạng lưu thông của máu trong lòng mạch, đưa đến kết quả là máu có đến được các cơ quan trong cơ thể hay không. Đây là một dấu hiệu sống rất quan trọng cùng với nhịp mạch đập, tần số thở - những chỉ số không thể thiếu để đánh giá sức khỏe của mỗi người.


Huyết áp lúc mang thai thay đổi ra sao?


Phụ nữ lúc mang thai có các thay đổi sinh lý về tim mạch như: Tăng nhịp tim, tăng lượng máu (tăng phần dịch nhiều hơn phần tế bào máu làm máu loãng hơn). Một số cơ quan phát triển nhiều, tăng sinh mạch máu nên cần lượng máu đi qua nhiều hơn như: vú, tử cung (bánh nhau). Tuy nhiên, huyết áp lại có khuynh hướng giảm khoảng 10 - 15%. Do đó, để theo dõi tốt diễn tiến huyết áp lúc mang thai, sản phụ nên biết được huyết áp của mình trước khi mang thai, theo dõi huyết áp từ khi giai đoạn sớm của thai kỳ và cần thường xuyên theo dõi huyết áp tới khi sinh. Một số bệnh lý nội khoa như: tim mạch, thận, máu sẽ làm ảnh hưởng đến huyết áp. Tăng huyết áp có thể là hậu quả của các bệnh lý nội khoa, cũng có khi không có nguyên nhân, khi đó gọi là bệnh tăng huyết áp thai kỳ. Huyết áp được gọi là tăng khi ở mức 140/90mmHg trở lên.


Tăng huyết áp thai kỳ được định nghĩa là tăng huyết áp khởi phát sau tuần lễ thứ 20 của thai kỳ. Không có dấu hiệu nào khác gợi ý tiền sản giật và huyết áp trở về bình thường trong vòng 3 tháng sau sinh.


Ảnh hưởng của tăng huyết áp trong thai kỳ


Các rối loạn tăng huyết áp chiếm 10 - 22% thai kỳ và được chia thành 4 nhóm. Tăng huyết áp thai kỳ khi chỉ có tăng huyết áp đơn thuần xảy ra sau tuần thai thứ 20. Nhóm thứ hai là tiền sản giật cũng xảy ra sau tuần thứ 20, gồm có tăng huyết áp, phù và có đạm trong nước tiểu. Nhóm thứ ba là tăng huyết áp mạn tính, thai phụ có cao huyết áp trước khi mang thai. Nhóm thứ tư là tăng huyết áp mạn tính có thêm tiền sản giật. Tần suất các rối loạn này hoàn toàn không biết rõ, nhưng tiền sản giật ảnh hưởng 5 - 8% thai kỳ. Tăng huyết áp mạn tính chiếm khoảng 20% các trường hợp tăng huyết áp trong thai kỳ.


Nếu không kiểm soát được tình trạng tăng huyết áp khi mang thai thì có thể dẫn đến các tai biến cho mẹ giống như tình trạng tai biến mạch máu của người bệnh cao huyết áp (là do mạch máu bị vỡ dưới áp lực quá cao). Với con, do tình trạng máu nuôi kém, có thể làm thai nhẹ ký hoặc suy dinh dưỡng, sợ nhất là tình trạng sinh non hoặc buộc phải có chỉ định cho con ra đời sớm để giảm bệnh lý cho mẹ. Thông thường, đa số các bệnh lý huyết áp của thai kỳ đều giảm rõ rệt sau khi thai được sinh ra. Tăng huyết áp khi mang thai cũng lấy ngưỡng khi huyết áp tâm thu > 140mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương > 90mmHg.


Tiền sản giật là gì?


Tiền sản giật là tình trạng bao gồm: Tăng huyết áp, có đạm trong nước tiểu và phù nhiều. Tình trạng này xảy ra sau tuần thai thứ 20. Nguyên nhân chính gây tăng huyết áp là có tình trạng co thắt các mạch máu nhỏ. Đạm niệu là do mạch máu thận bị tổn hại gây thất thoát đạm qua nước tiểu. Xét nghiệm nước tiểu sẽ biết được tình trạng này. Phù do bị mất nhiều đạm, phù nhiều, có thể phù cả tay và mặt, không hết sau nằm nghỉ. Phù trong tiền sản giật khác với phù sinh lý khi mang thai (phù ở chân do chèn ép sẽ khỏi sau một đêm nằm nghỉ ngơi).


Nguyên nhân nào dẫn đến tiền sản giật?


Hiện nay, nguyên nhân vẫn chưa rõ, tuy nhiên khi thai phụ quá trẻ hoặc quá lớn tuổi (nhỏ hơn 15 hay lớn hơn 35 tuổi) dễ bị tiền sản giật. Người sinh con so dễ bị hơn so với người sinh con rạ, người sinh đa thai dễ bị hơn sinh một thai. Đái tháo đường cũng là yếu tố nguy cơ. Bệnh khỏi nhanh chóng sau khi sinh. Nếu để bệnh diễn tiến nặng, huyết áp không được kiểm soát có thể đưa đến cơn sản giật. Sản giật là cơn co giật. Bệnh nhân đang tỉnh, thường than nhức đầu; sau đó, cơn co giật cả người trong vài giây đến vài phút. Bệnh nhân lơ mơ trong cơn giật rồi tỉnh lại một cách chậm chạp. Cơn co giật có thể xảy ra một lần hay nhiều lần liên tục nếu huyết áp vẫn tăng cao, càng nhiều lần thì càng nguy hiểm cho mẹ và cho con. Những dấu hiệu cho thấy bệnh nặng là nhức đầu, nhìn mờ mắt, đau vùng thượng vị hoặc vùng hạ sườn phải, tri giác thay đổi.


Sau khi thai ra khỏi cơ thể mẹ, huyết áp sẽ giảm dần tới ổn định, sau 6 tuần hậu sản, huyết áp sẽ về bình thường. Bệnh không làm huyết áp tăng trong nhiều năm sau đó. Tuy nhiên, nếu có các biến chứng của bệnh (tai biến mạch máu, tổn thương các cơ quan nội tạng, nhất là gan, thận) thì chắc chắn sẽ có di chứng, tùy theo mức độ tổn thương.


Điều trị và phòng ngừa tăng huyết áp thai kỳ


Điều trị tăng huyết áp trong thai kỳ chủ yếu là thuốc hạ áp khi huyết áp trên 140/90mmHg. Trong tiền sản giật, bác sĩ sẽ dùng thuốc chống co giật để hạn chế cơn co giật xảy ra, quan trọng nhất là việc lấy thai ra khi sức khỏe mẹ diễn tiến nghiêm trọng. Phòng ngừa tốt nhất là các sản phụ nên theo dõi huyết áp sớm và thường xuyên lúc mang thai, biết được tình trạng huyết áp trước khi mang thai, tránh mang thai khi còn quá trẻ hay đã quá lớn tuổi, điều trị ổn định các bệnh nội khoa trước khi mang thai.


Tăng huyết áp thai kỳ báo động một thai kỳ có nguy cơ. Việc quan trọng cần làm là các sản phụ cần được theo dõi sát huyết áp trước và trong khi mang thai. Nếu có tình trạng tăng huyết áp xảy ra, sản phụ cần được hỗ trợ điều trị của bác sĩ chuyên khoa, qua đó đem lại sức khỏe tốt nhất cho mẹ và con.


TÔN THẤT TOÀN